Du khách đến Paris hay người dân Pháp có dịp thăm thủ đô nước mình
thì đều nghĩ đến Bảo Tàng Viện Louvres. Bởi Louvres là một kho tàng
gìn giữ bao nhiêu gia tài văn hóa nghệ thuật, không những của Pháp
mà cả của Âu châu và thế giới, nhất là thế giới từng nếm mùi thực
dân Pháp.
Bước vào cổng chính Louvres là đụng đầu ngay với hình ảnh người
thiếu phụ trung niên cười mím chi với tựa đề La Joconde hay
La Gioconda của Da Vinci hoàn thành cách nay 505 năm. La
Joconde là vật trấn bảo của Louvres, là niềm tự hào của Pháp. Ai
đã được nhìn một lần là bị hớp hổn ngay.
Bất Hoặc tôi cung Thiên Mã Thiên Di ngộ Tuần Triệt không đến được
Paris nên không được chiêm ngưỡng dung nhan kẻ mà thế nhân thường
gọi khơi khơi là Mona Lisa đã được nổi tiếng với bản nhạc cùng tên
do một danh ca Mỹ hát.
Nụ cười bí ẩn của người trong tranh là một nghi vấn, một thách thức
khiến người nhìn phải rờn rợn, khựng lại như đang đi đêm cảm thấy ma
vậy.
Kẻ ghi lại được một cách tài tình nụ cười bí hiểm ấy là Da Vinci,
người Italia và ông đề tựa cho tác phẩm bất hủ của mình là La
Gioconda, có nghĩa là một phụ nữ giàu có vui vẻ.
Tại sao bức tranh đó lại nằm trong một bảo tàng viện của Pháp, tự
bao giờ? Không thấy tài liệu nào nói đến. Nhưng quan trọng nhất là
câu hỏi người đàn bà với nửa nụ cười thách thức bí ẩn đó là ai?
Câu hỏi đã làm chảy không biết bao nhiêu mực. Thiếu phụ trong tranh
có phải là người yêu hay là mẹ của tác giả, bởi họa sĩ thường dùng
những người thân làm mẩu?
Có người còn đi xa hơn cho rằng La Gioconda là một tự họa.
Chẳng có người đẹp nào làm mẩu cả. Da Vinci buồn tình tự vẽ mình đấy
thôi!
Những chào xáo luận bàn vớ vẩn ấy có lẽ đã tạm lắng với bản tin quốc
tế của hãng thông tấn quốc tế rất có uy thế truyền thông là
Reuters.
Trong bản tin ngày 14/1/2008 hãng này đăng tin với hàng tít:Who
Was Mona Lisa? cho biết đại học Heidelberg bên
Đức đã có đủ tài liệu để kết luận người mẩu trong chân dung nổi
tiếng La Gioconda của Da Vinci là của vợ đại thương gia
Francesco del Giocondo ở tỉnh Florence bên Italia! Các chuyên viên
chiết tự của đại học danh tiếng này còn cho biết nhũ danh của người
trong tranh là Lisa Gherardini.
Nhân tiện Reuters cũng nhắc lại là năm ngoái, nhà danh họa Da Vinci
đã nổi đình nổi đám với phim và quyển sách Da Vinci Code của
Dan Brown với chủ đề xoay quanh bức tranh The Last Supper
thường được gọi là Buổi Tiệc Ly. Hình như cũng đang được trưng bày
tại Louvres.
Cuốn phim và quyển tiểu thuyết này đúng là một quả lựu đạn nổ giữa
đàn magpie, tiếng Việt tạm dịch là quạ khoan, không biết có
chỉnh không? Ai có tiếng gì chỉnh hơn xin chỉ cho.
Hú hồn hú vía cho Dan Brown sống trong thời đại mà ai ai đến tuổi
thành niên đều được cấp môn bài đàng hoàng để nghĩ gì nói nấy, ưng
gì nói nấy.
Môn bài thiêng liêng đó là Hiến Pháp Mỹ kèm thên Tuyên Ngôn Quốc Tế
Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc.
Ưng nói bậy cứ tha hồ nhưng xui xẻo thì chịu khó trả lời với ông tòa
bà tòa về tội vu khống mạ lỵ. Trả lời không được thì đi tù hay bán
nhà bán xe mà phạt vạ bồi thường!
Nếu không đầu thai vào thời đại dân chủ nhân quyền này thì Dan
Brown dám bị barbecue trên dàn hỏa như Linh Mục dòng Phước
Sơn Giordano Bruno [1548-1600] ngứa miệng ham ăn nói tự do ngày xưa
lắm!?
Ông nhà tu này quên mất ngoài trời còn có trời, nên hay nói bậy viết
bậy.
Đến khi bề trên đòi nói ngược lại thì ngoan cố không chịu sám hối
sửa sai nên bị đóng cột vào hậu môn trồng ngược chất củi quanh đốt
như kiểu dân nhậu miền Tây nướng trui cá lóc vậy…
Giả thuyết
La Giocondo là một tự họa quả thực là của một người anh em
thân của Bất Hoặc tôi. Hắn cũng chính là tác giả của bức điêu khắc
bán thân bằng gỗ long não mà Bất Hoặc tôi đang chưng trong phòng
khách với cái tên Người Đẹp Cụt Đầu.
Có người
thấy bức điêu khắc hơi kỳ kỳ nên hỏi: Sao người đẹp không đầu vậy?
Bất Hoặc
tôi thường cà khịa: Không đầu thì mới đẹp chứ!
Thật vậy,
nói đến đẹp là nói đến gương mặt. Có ai dám nói Chung Vô Diệm đẹp
trước khi bà đổi lốt?
Nhưng có mặt, có đầu có chắc là đẹp không? So sánh bức La Gioconda
của Da Vinci với những pho tượng vệ nữ mất đầu, như pho Venus de
Milan của tác giả vô danh chẳng hạn, có lẽ người ta sẽ tự hỏi người
đẹp không đầu và người đẹp có đầu, ai đẹp hơn ai?
La Gioconda của da Vinci nổi tiếng, nhưng không ai cho người đàn bà
trong tranh là đẹp cả. Cái làm cho bức tranh này nổi tiếng là nụ
cười của người trong tranh, nụ cười làm cho người nhìn phải nín thở,
cảm thấy lồng ngực bị đè nặng, phát mệt. Pho tượng Venus mất đầu
thì lại khác. Nhìn những pho tượng đó, người ta có thể tưởng tượng
ra trăm ngàn người đẹp. Và trước tiên dĩ nhiên là người đẹp của
chính người đang ngắm tượng, hoặc người đẹp mà người xem tượng đang
ước mơ hay thương thầm nhớ trộm.
Người đẹp không đầu, không mặt nên ai cũng có thể nghĩ người đó là
của mình, hay giống như người của mình. Ý nghĩ lang bang ấy thường
bị lên án là ngoại tình, phản bội, bất trung.
Ai c ũng thích
đẹp nhưng đố ai nói được đẹp là gì. Đẹp là mắt
đẹp, là môi đẹp, là tóc đẹp? Hay là cả khuôn mặt như Văn Cao bảo: /Ôi
khuôn mặt sáng
trong và bình lặng/ Tôi được đầu tiên và còn lại cuối cùng./ hay là
cả toàn thân đẹp như Hàn Mặc Tử nhìn thấy: /Ô kìa, bóng nguyệt trần
truồng tắm/ Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe./ Vô
tình để gió hôn
lên má/ Bẽn lẽn làm sao, lúc nửa đêm/?
Nhưng sắc đẹp ấy là của ai vậy? Nỗi bi đát của tình yêu là người ta
không mấy khi nhìn đối tượng qua lăng kính khoảnh khắc tuyệt đối mà
chỉ nhìn qua thước đo tương đối: /cô gái ấy đẹp sao giống em đến
vậy/ và chàng trai run rẩy giống anh sao?/ (Nguyễn trọng Tạo - Cỏ
Xanh Đêm Trước) cho nên không sống được trọn vẹn với phút giây hiện
tại trong lòng tin vào một tình yêu luôn luôn đổi mới: /Sự thật
ngày nay không thật đến ngày mai.../ Thì ân ái có bao giờ lại cũ?/
(Xuân Diệu - Phải Nói). Hậu quả là: /Dầu tin tưởng: chung một đời,
một mộng,/ Em là em; anh vẫn cứ là anh./ (Xuân Diệu - Xa Cách).
Vì nghi ngờ mình và nghi ngờ người mình yêu, bởi không tin vào những
phút giây phù du mà thiên thu nên người ta đã tìm cách thiên thu hóa
cái phù du bằng tuyên thệ khấn hứa mà quên rằng thề thốt nói cho
cùng cũng chỉ là một hứa hẹn phản bội:/Ai nói trước lòng
anh không phản trắc,/ Mà lòng em, sao lại chắc trơ trơ?/(Xuân
Diệu - Giục Giã).
Người
thường tin vào những tiêu chuẩn đẹp. Nhưng tiêu chuẩn là đo lường,
là so sánh, là gọi tên, nghĩa là có giới hạn. Nghĩa là hết đẹp! Cái
làm mấy ông liên tưởng hoảng là nét mặt. Nhưng vì nét mặt mà liên
tưởng lung tung thì coi chừng.
Trong bài thơ Những Phút Xao Lòng,Thuận Hữu đã nói một câu chí lý dù
các đấng liền ông ít khi dám công khai thú nhận:
/Ai cũng có một thời để
yêu và một thời để nhớ/ Nhưng để
tâm trí lợn cợn vì những phút xao lòng ấy thì nhiều khi cũng bất
tiên lắm. Gặp người đẹp mà mà tán loạn cào cào: Em ơi, em đẹp quá!
Em đẹp giống Brigitte Bardot, Zeta-Jones hay…Catherine Deneuve hay…
Cũng Lợi, Ngọc Minh, Phương Hoài Tâm…dzậy thì coi chừng có ngày
không vêu mỏ thì cũng phù mỏ cho mà xem!
Bất Hoặc
tôi rất khoái bài thơ
Mỵ Châu 26 câu của Anh Ngọc. Một bài thơ đáng được
giải Nobel văn chương,
ca tụng cuộc tình Mỵ Châu-Trọng Thủy, hai nạn nhân của một trò chơi
chính trị tang thương. Mấy chục câu thơ đó Bất Hoặc tôi còn nhớ loam
oam thế này:
Lông ngỗng lông ngan rơi trắng đường chạy nạn
Những chiếc lông không tự biết giấu mình.
Nước mắt thành mặt trái của lòng tin
Tình yêu đến cùng đường là cái chết
Nhưng người đẹp dẫu rơi đầu vẫn đẹp
Tình yêu bị dối lừa vẫn nguyên vẹn tình yêu.
Giá như trên đời còn có một Mỵ Châu
Vừa say đắm yêu đương vừa luôn luôn cảnh giác
Không sơ hở, chẳng mắc lừa mẹo giặc
Một Mỵ Châu như ta vẫn hằng mơ.
Thì hẳn Mỵ Châu không sống đến bây giờ
Để chung thủy với tình yêu hai ngàn năm có lẻ
Như anh với em dẫu yêu nhau chung thủy
Đến bạc đầu bất quá chỉ trăm năm.
Nên chúng ta dù rất đỗi đau lòng
Vẫn không thể cứu Mỵ Châu khỏi chết
Lũ trai biển sẽ thay người nuôi tiếp
Giữa lòng mình viên ngọc của tình yêu.
Vẫn còn đây pho tượng đá cụt đầu
Bởi cụt đầu nên tượng càng rất sống
Cái đầu cụt gợi nhớ dòng máu nóng
Hai ngàn năm dưới đá vẫn tuôn trào.
Mỵ Châu đẹp vì Mỵ Châu mất đầu, hay Mỵ Châu mất đầu nên Mỵ Châu
đẹp?
Tình yêu đắn đo tính toán cảnh giác chỉ là thường tình, 'bất quá chỉ
trăm năm', không
phải là tình yêu vĩnh cửu. Nhưng tình yêu vĩnh cữu vĩ đại với tình
yêu tầm thường so đo toan tính khác nhau chỗ nào? Đó là câu hỏi
chết người.
Chết người bởi vì không ai giải thích được thế nào là yêu thương,
không ai định nghĩa được thế nào là đẹp. Vì không biết lấy tiêu
chuẩn khuôn thước nào để định nghĩa yêu thương, để xác định đẹp cho
nên người ta phải bám vào một giả định nào đó.
Bình thường, Mỵ Châu yêu Trọng Thủy đến chết như vậy có phải là tình
yêu chân thật không? Tình yêu một chiều có phải là tình yêu không?
Hay nói như Anh Ngọc: /Tình yêu bị dối lừa
vẫn nguyên vẹn tình yêu./?
Đó lại cũng là một câu hỏi chết người nữa. Bởi xét cho cùng, Mỵ
Châu chỉ trung thành với tình yêu của chính mình chứ không cần biết
Trọng Thủy có trung thành với mình không!
Có đúng vậy không?
Huỳnh Bất Hoặc